Aristotle cho rằng đoạn trên đây chính là cốt lõi của câu chuyện, phần còn lại chỉ là các tình tiết cụ thể. Tuy nhiên, dù không thể viết một cuốn tự truyện hoàn toàn đúng sự thật, chúng ta cũng không thể viết một cuốn tự truyện mà không có thông tin nào là sự thật cả. Sự nghịch lý mang tính tò mò luôn xuất hiện trong quá trình đọc đồng chủ đề.
Bạn có thể đọc các tác phẩm này để thấy được quan điểm y học phòng bệnh hơn chữa bệnh của Hyppocrates. Cuốn sách tồi chống lại mọi nỗ lực phân tích của bạn. Họ không, thậm chí là không thể chất vấn việc đọc các cuốn sách theo họ là kinh điển.
Nhưng sự thật không phải lúc nào cũng như vậy, nhất là đối với các tác phẩm mô tả. Quy tắc này liên quan chặt chẽ đến quy tắc 2. Các tác giả khác nhau thường sử dụng những từ ngữ khác nhau khi nói về cùng một vấn đề, hoặc những từ ngữ giống nhau khi đề cập đến những vấn đề khác nhau.
Nói như trên không có nghĩa bạn nên bỏ qua tiêu đề chương và sự phân đoạn của tác giả, mà hãy sử dụng chúng như những định hướng cho hoạt động của riêng bạn. Chính vì vậy, người ta thường nói không gì ngoài hoạt động thực tiễn có thể giải quyết vấn đề thực tiễn và hành động chỉ có trong đời sống, không phải trong sách vở. Đọc một bài viết, người đọc có thể tiếp nhận một lượng thông tin ít hay nhiều, toàn bộ hay chỉ một phần, phụ thuộc vào mức độ hoạt động họ bỏ ra trong quá trình đọc, và kỹ năng điều khiển các hoạt động trí óc liên quan.
Nhưng bạn có thể thấy băn khoăn làm sao để tìm ra các nghĩa mà tác giả sử dụng? Câu trả lời là bạn phải xác định nghĩa của từ bạn chưa hiểu dựa trên ý nghĩa của tất cả các từ bạn đã hiểu xuất hiện trong cùng ngữ cảnh. Xét về một số phương diện, yêu cầu của ông về sự rõ ràng và phân biệt rạch ròi trong suy nghĩ là chính đáng trong bầu không khí hỗn loạn của các ý tưởng thời bấy giờ. Thứ nhất, bạn cần phải thừa nhận những cảm xúc mình đưa vào quá trình lập luận, hoặc phát sinh trong quá trình đó.
Trong các chuyên luận đó, có những tác phẩm được cho là thông dụng và đa số chúng là các đoạn đối thoại. Đây là quy tắc đầu tiên cần áp dụng cho giai đoạn thứ hai của quá trình đọc phân tích. Cuốn sách còn bàn đến những cách sử dụng nguồn vốn có ích hơn, liên hệ giữa nguồn gốc và việc sử dụng tiền với sự tích luỹ cũng như sử dụng nguồn vốn.
Nếu tác giả dùng một từ theo nghĩa này mà độc giả lại hiểu nó theo nghĩa khác, tức là hai bên hoàn toàn không có sự thống nhất về ý niệm mặc dù đã có sự chuyển giao ngôn từ. Các câu này chủ yếu nêu vấn đề chứ không đưa ra câu trả lời. Tại sao việc đánh dấu vào một cuốn sách lại là điều không thể thiếu khi đọc sách? Thứ nhất, nó giúp bạn tỉnh táo hoàn toàn .
Ba lời nhận xét phê bình đầu tiên liên quan đến độ chính xác trong các ý kiến và suy luận của tác giả. Những khó khăn khi đọc một cuốn sách hay rất khác với những khó khăn khi đọc một cuốn sách tồi. Điều quan trọng nhất cần phải ghi nhớ về bất kỳ cuốn sách thực hành nào là cuốn sách đó không thể giải quyết những vấn đề thực tiễn mà nó nói đến.
Đôi khi người ta gọi đó là cấp độ biết chữ tám, chín, hay mười. Những điểm này khá độc lập với nhau. QUY TẮC 1: BẠN PHẢI BIẾT CÀNG SỚM CÀNG TỐT LOẠI SÁCH MÌNH ĐANG ĐỌC LÀ GÌ, TỐT NHẤT LÀ TRƯỚC KHI BẠN BẮT ĐẦU ĐỌC CUỐN SÁCH ĐÓ.
Sự khác biệt giữa khám phá có trợ giúp và không có trợ giúp thể hiện rõ ở điểm này. Bạn càng tỏ tường về những luận điểm của mình thì bạn càng ít đánh giá sai quan điểm của người khác. Một tác giả tài ba sẽ không che giấu một đoạn xương nhỏ bằng một lớp thịt dầy, cũng không dùng lớp thịt quá mỏng khiến bộ xương lộ ra, mà sẽ đắp một lớp thịt vừa đủ và chắc chắn.